Dự án Luật Công chứng (sửa đổi) sẽ được Quốc hội thảo luận tại hội trường trong phiên họp chiều 25/10. Đây là dự án luận có tính chuyên môn sâu và tầm ảnh hưởng lớn, nhận được nhiều sự quan tâm từ phía các chuyên gia, nhà nghiên cứu. Nhằm cung cấp thêm góc nhìn chuyên sâu về dự án luật này, Cổng TTĐT Quốc hội trân trọng giới thiệu bài viết “Nên giữ thủ tục “công chứng văn bản khai nhận di sản” trong dự thảo Luật Công chứng (sửa đổi)”.
Văn bản khai nhận di sản là một trong những căn cứ xác lập quyền sở hữu tài sản mà tài sản này là di sản của người chết chuyển sang người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật. Hiện nay, Điều 57 Luật Công chứng năm 2014 quy định về thủ tục “Công chứng văn bản thỏa thuận phân chia di sản” và Điều 58 quy định về thủ tục “Công chứng văn bản khai nhận di sản”. Cả hai thủ tục này cung cấp tính minh bạch về thủ tục cho người dân khi thực hiện quyền hưởng di sản thừa kế được quy định trong hai đạo luật gồm: Bộ luật Dân sự năm 2015 với tính chất là luật chung (Điều 659 quy định về “Phân chia di sản theo di chúc”, Điều 660 quy định “Phân chia di sản theo pháp luật”) và Luật Đất đai với tính chất là luật chuyên ngành (quy định về “nhận thừa kế” và “phân chia thừa kế” được áp dụng trong nhiều trường hợp khác nhau). Việc bỏ thủ tục “công chứng khai nhận di sản” trong Dự thảo Luật Công chứng (sửa đổi) sẽ không đáp ứng được thủ tục cho nội dung “nhận di sản” của Luật Đất đai là một bất cập lớn, cụ thể:
Thứ nhất: Khoản 4 Điều 44 Luật Đất đai năm 2024 quy định: Trường hợp trong số những người nhận thừa kế có người gốc Việt Nam định cư ở nước ngoài không thuộc đối tượng được sở hữu nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở tại Việt Nam còn những người khác thuộc diện được nhận thừa kế quyền sử dụng đất (QSDĐ) theo quy định của pháp luật về đất đai mà chưa phân chia thừa kế QSDĐ cho từng người nhận thừa kế thì những người nhận thừa kế hoặc người đại diện theo ủy quyền bằng văn bản nộp hồ sơ về việc nhận thừa kế tại tổ chức đăng ký đất đai để cập nhật vào Sổ địa chính. Sau khi giải quyết xong việc phân chia thừa kế thì cấp Giấy chứng nhận QSDĐ, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất cho người thuộc đối tượng được cấp Giấy chứng nhận QSDĐ, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất; đối với người gốc Việt Nam định cư ở nước ngoài không thuộc đối tượng được sở hữu nhà ở gắn liền với QSDĐ ở tại Việt Nam thì phần thừa kế được giải quyết theo quy định tại khoản 3 Điều 44 Luật Đất đai. Luật Đất đai có sự phân biệt giữa “nhận thừa kế” và “phân chia thừa kế”. Do đó, cần có hai thủ tục để thực hiện hai nội dung này.
Thứ hai: QSDĐ và tài sản gắn liền với đất là một sản phẩm, hàng hóa đặc biệt, người sử dụng đất chỉ được thực hiện quyền giao dịch khi đáp ứng một số điều kiện luật định. Trong quá trình này, người sử dụng đất có thể chết khi chưa được cấp giấy chứng nhận QSDĐ, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất; QSDĐ bị ghi nợ nghĩa vụ tài chính; Cần xác định quyền và nghĩa vụ của người thừa kế khi di sản là QSDĐ đang bị tranh chấp, đang được sử dụng để bảo đảm nghĩa vụ, QSDĐ đang bị kê biên, đang bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời hoặc QSDĐ hết thời hạn sử dụng, lúc này cần phải thực hiện thủ tục “công chứng khai nhận di sản” trước khi người thừa kế thực hiện quyền đối với di sản thừa kế. Do đó, khoản 4 Điều 45 Luật Đất đai năm 2024 quy định: Trường hợp nhận thừa kế QSDĐ thì người nhận thừa kế được thực hiện quyền khi có Giấy chứng nhận QSDĐ, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất …
Bên cạnh đó, khoản 11 Điều 18 Nghị định số 101/2024/NĐ-CP quy định: Người nhận thừa kế theo quy định của pháp luật có nhu cầu ghi nợ thì được tiếp tục ghi nợ; người thừa kế được thực hiện quyền khi đáp ứng Khoản 5 Điều 45 Luật Đất đai năm 2024, nghĩa là phải thực hiện xong nghĩa vụ tài chính trước khi thực hiện các quyền.
Thứ ba: Nghị định số 123/2024/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai quy định: Hành vi thừa kế QSDĐ không đủ một trong các điều kiện theo quy định tại khoản 1 Điều 45 Luật Đất đai (Điều kiện thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho QSDĐ; thế chấp, góp vốn bằng QSDĐ; nhận chuyển quyền) thì bị xử phạt vi phạm hành chính theo Nghị định số 123/2024/NĐ-CP, đồng thời thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả: Buộc bên nhận chuyển quyền phải trả lại đất cho bên chuyển quyền. Do đó, cần thụ tục “công chứng văn bản khai nhận di sản” để người thừa kế thực hiện các điều kiện để QSDĐ đáp ứng điều kiện tham gia giao dịch trước khi thực hiện “công chứng văn bản phân chia di sản”.
Thứ tư: Cần có thủ tục “công chứng văn bản khai nhận di sản” nhằm bảo đảm nội dung việc nhận di sản nhằm khẳng định tài sản có người nhận thừa kế và không thuộc về nhà nước. Việc nhận thừa kế nhằm xác lập quyền hưởng di sản của người thừa kế trước khi người thừa kế thực hiện các giao dịch khác liên quan đến di sản thừa kế.
Thứ năm: Thực tiễn cho thấy, có những trường hợp sau khi thực hiện thủ tục “công chứng khai nhận di sản” những người thừa kế tự phân chia di sản.
Do đó, trong thời gian vừa qua Điều 58 Luật công chứng năm 2014 quy định về thủ tục “công chứng văn bản khai nhận di sản” đã tạo ra sự ổn định trong hoạt động công chứng và dần đưa thủ tục “công chứng khai nhận di sản” đáp ứng nhu cầu của Luật chuyên ngành là Luật Đất đai suốt trong thời gian vừa qua.
Nếu bỏ thủ tục “công chứng văn bản khai nhận di sản” thì những trường hợp “nhận di sản” quy định trong Luật Đất đai sẽ không có cơ quan nào thực hiện, lúc này người dân sẽ tự khai và tự chịu trách nhiệm về những tuyên bố, lời khai về người thừa kế cho các trường hợp nhận thừa kế. Việc này thể hiện sự văn minh, tuy nhiên trong thời điểm hiện nay việc bỏ thủ tục “công chứng văn bản khai nhận di sản” trong dự thảo luật Công chứng (sửa đổi) là chưa phù hợp.
Do hiện nay, hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, hộ tịch … chưa đồng bộ và ý thức tự giác của người dân chưa được kiểm soát có thể dẫn đến tình trạng bỏ sót thừa kế như thực tiễn đã chứng minh giai đoạn cho người dân tự khai nhận thừa kế bằng tờ khai lệ phí trước bạ trước đây. Từ khi Luật Công chứng quy định thủ tục “công chứng khai nhận di sản” thì hoạt động này đã phần nào bảo đảm ổn định trật tự xã hội, hạn chế tranh chấp về thừa kế khi người sử dụng đất thực hiện thủ tục cấp giấy chứng nhận QSDĐ, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất lần đầu cũng như đăng ký biến động.
Như đã trình bày, Bộ luật Dân sự năm 2015 với tính chất là luật chung nên chỉ quy định thủ tục “Phân chia di sản” còn Luật Đất đai là luật chuyên ngành, do đó trong trường hợp Luật chuyên ngành được chọn ưu tiên áp dụng mà luật chung chưa quy định thì Luật Công chứng cần phải quy định thủ tục “khai nhận di sản” để đáp ứng nhu cầu cần một thủ tục công khai, minh bạch cho luật chuyên ngành là phù hợp. Do đó, cần giữ nguyên thủ tục “khai nhận di sản” trong Dự thảo Luật Công chứng (sửa đổi) hoặc sửa Điều 56 Dự thảo Luật Công chứng (sửa đổi) từ “Công chứng văn bản phân chia di sản” thành “Công chứng văn bản khai nhận, phân chia di sản” để đáp ứng nhu cầu thực tế của người dân cũng như tạo ra sự đồng bộ, thống nhất, minh bạch của hệ thống pháp luật.
Vũ Văn Huân,Viện Nghiên cứu lập pháp.
Email: huanlawyer@gmail.com